SỬ DỤNG VI KHUẨN BACILLUS TRONG CHĂN NUÔI THỦY SẢN
Bacillus có tác dụng hỗ trợ cải thiện tình hình sức khỏe, tăng cường hệ miễn dịch, cải thiện môi trường, giảm đọc NH3, H2S, ức chế vi khuẩn, cạnh tranh chất dinh dưỡng
Trong các sản phẩm thức ăn hay xử lý môi trường trong nuôi trồng thủy sản thường có các chủng vi khuẩn Bacillus được quảng cáo với nhiều công dụng tốt cho tôm,cá và môi trường nuôi.
Vậy vi khuẩn Bacillus có cơ chế như thế nào, những lợi ích cụ thể nào cuea chủng vi sinh vật này khiến chúng được sử dụng rộng rãi như vậy?
1. Hỗ trợ cải thiện tình hình sức khỏe
- Hỗ trợ tăng nguồn dinh dưỡng cũng như enzyme tiêu hóa:
Cung ứng dinh dưỡng trực tiếp: các nghiên cứu trên một số đối tượng nuôi thủy sản bao gồm: luân trùng, Artemia, nhuyễn thể, ấu trùng giáp xác, cá… đã cho ra kết quả lợi khuẩn Bacillus trực tiếp cung ứng chất dinh dưỡng đến vật nuôi, dinh dưỡng này đặc biệt là acid béo và vitamin. Một nghiên cứu được thực hiện trên cá hồi chấm hồng ở Bắc cực (Salvelinus alpinus L) cũng cho ra kết quả vi khuẩn thực sự đóng vai trò quan trọng trong quy trình dinh dưỡng của cá. Các nghiên cứu cùng đề tài trên tôm thẻ trưởng thành (Penaeus chinensis) cũng đã cho thấy hệ vi sinh vật là nguồn cung ứng dinh dưỡng đồng thời là nguồn thức ăn trực tiếp cho tôm.
2. Hỗ trợ tăng cường hệ miễn dịch
Vi khuẩn còn có thể giúp tăng đáp ứng miễn dịch không đặc hiệu. Khi thực hiện nghiên cứu sử dùng vi khuẩn trộn vào thức ăn của cá hồi nước ngọt (Rainbow trout) đã cho thấy việc làm này giúp tăng sự đề kháng, đặc biệt vớii vi khuẩn gây bệnh Vibrio qua quá trình làm tăng các hoạt động thực bào của bạch cầu.Rengpipat et al., đã thực hiện một nghiên cứu khác vào năm 2000 trên tôm sú và cũng cho đồng tình rằng sử dụng Bacillus sp. (S11) giúp tôm nuôi ít nhiễm bệnh. Giải mã cho cơ chế đó, các nhà nghiên cứu xác định do vi khuẩn Bacillus có khả năng tạo ra các chất làm khả năng đáp ứng tăng lên ở cả miễn dịch tế bào và miễn dịch dịch thể.
Vào năm 2003 Balcázar đã kết luận Bacillus hỗ trợ tăng tỉ lệ sống cũng như tăng trưởng của tôm thẻ bởi có thể khống chế V. harveyi và virus đốm trắng.
Tới năm 2009, Hadi Zokaei et al đã thực hiện thí nghiệm đưa B. subtilis vào thức ăn tôm thẻ chân trắng và kết quả là tôm tăng trưởng nhanh, tỉ lệ sống cao hơn và giảm đi mật độ Vibrio.
3. Hỗ trợ cải thiện môi trường.
Bacillus có khả năng tiết ra enzyme giúp phân hủy các chất bao gồm: carbonhydrate, chất béo và đạm trở thành các đơn vị nhỏ hơn. Lợi khuẩn này cũng có thể giúp phân hủy các chất hữu cơ được tích lũy ở nền đáy của ao nuôi tôm.
Bacillus có công dụng giúp giảm COD, H2S trong ao nuôi tôm, hỗ trợ tăng năng suất tôm nuôi. Bởi lẽ nhóm vi khuẩn Bacillus thuộc vi khuẩn gram (+) nên cơ chế phân hủy vật chất hữu cơ thường trở thành CO2 tốt hơn so với nhóm gram (-).
Urê và axit uric là các chất có trong thành phần chất thải của thủy sản. Quy trình amôn hóa urê cần trải qua 2 giai đoạn, trước hết urê sẽ bị thủy phân hình thành muối carbonate amôn. Ở giai đoạn tiếp theo, carbonate amôn sẽ chuyển hóa trở thành NH3, CO2 và H2O.
Axit uric khi bị các vi sinh vật phân giải biến thành urê và acid tactronic. Tiếp đó urê sẽ bị phân giải trở thành NH3. Bacillus sẽ tham gia trong hoạt động amôn hóa thành phần protein, nói cụ thể chính là quá trình phân giải hợp chất hữu cơ có chứa thành phần nitơ đồng thời giải phóng NH3.
Trước tiên protein sẽ bị phân cắt thành pepton, polypeptid oligopeptid, dipeptid và acid amin. Một bộ phận axit amin sẽ được tế bào của lợi khuẩn Bacillus hấp thu biến thành chất dinh dưỡng, phần còn lại sẽ thông qua hoạt động khử amin trở thành NH3 cũng như nhiều sản phẩm trung gian khác phụ thuộc vào điều kiện.
4. Giảm chất độc NH3, H2S:
Trong môi trường kỵ khí, các acid amin sẽ không được vô cơ hóa hoàn toàn, bên cạnh các chất NH3 và CO2 còn đọng lại nhiều loại hợp chất hữu cơ khác điển hình như: acid hữu cơ, rượu, H2S và một số dẫn suất khác của nó như mecaptan, và các chất độc như diamin và tomain, indon và scaton.
Chính vì vậy mà người nuôi luôn phải lưu ý duy trì hàm lượng oxy hòa tan cao, nhất là oxy ở vị trí đáy ao luôn cao để có thể đảm bảo quá trình phân hủy chất hữu cơ được xảy ra hoàn toàn.
5. Vi khuẩn Bacillus có tác dụng ức chế tác nhân gây bệnh.
- Hỗ trợ tiết ra kháng sinh
Các nghiên cứu đã chứng minh rằng vi khuẩn có khả năng tiết ra môi trường các chất mang tính sát khuẩn hoặc hạn chế khuẩn gây bệnh gây ảnh huỏng đến các quần thể sinh vật khác nhau. Cơ chế này được xác định nhằm mục tiêu cạnh tranh dinh dưỡng cũng như năng lượng sẵn có trong môi trường.
Năm 2005, một nghiên cứu của Stein đã khẳng định tiềm năng tiết ra kháng sinh của B. subtilis và đã được công nhận hơn 50 năm qua. Trong thời điểm hiện tại tác giả đã đưa ra tổng kết lên đến vài trăm dòng khuẩnn này và hơn 20 chất kháng sinh đã được tìm thấy với các cấu trúc khác nhau như: subtilin, ericin, mersacidin, sublancin, subtilosin, surfactin, iturin, bacillibactin, bacillmycin, mycosubtilin, fengycin, plipastatin, corynebactin, bacilysin, difficidin, oxydifficicin, bacilysocin, rhizocticin, amicoumacin, mysobaccillin.... Các chất kháng sinh này đa phần là được tiết ra trong ruột, trên bề mặt cơ thể của vật chủ hoặc xuất hiện trong môi trường nước cản trở sự nhân lên của các loại vi khuẩn cơ hội và tạo nên quá trình ức chế các sinh vật gây bệnh. Điều đặc biệt là các chất kháng sinh nay hoặc có thể hoạt động và có tác dụng đơn lẻ, hoặc là kết hợp với nhau.
6. Cạnh tranh chất dinh dưỡng
Xảy ra điển hình và chủ yếu ở nhóm sinh vật dị dưỡng, sự cạnh tranh ở đây bao gồm cạnh tranh chất hữu cơ, nguồn carbon và năng lượng. Thời điểm hiện tại thì các nghiên cứu liên quan đến vấn đề này chưa có nhiều. Vào năm 1998 Rico-Mora đã thực hiện việc đưa một dòng vi khuẩn có năng lực tồn tại và phát triển trong môi trường nghèo nàn chất hữu cơ. Thí nghiệm chính là cấy khuẩn này vào bể nuôi tảo khuê cùng với Vibrio alginolyticus và kết quả thu được là Vibrio không thể phát triển được. Như vậy cũng có nghĩa là vi khuẩn được chọn có khả năng cạnh tranh và lấn át Vibrio ở môi trường hạn chế chất hữu cơ. Tới năm 1999 Verschuere et al cũng đã sử dụng một vài dòng vi khuẩn được chọn lọc có ảnh hưởng tích cực đến tỉ lệ sống cũng như khả năng phát triển của ấu trùng Artemia để thực hiện thí nghiệm của mình. Kết quả nhận được đã cho thấy chất kháng sinh được tiết ra môi trường có công dụng kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh V. proteolytics CW8T. Điều này lần nữa khẳng định cácdòng vi khuẩn được chọn lọc có ưu thế hơn trong hoạt động cạnh tranh năng lượng cũng như chất dinh dưỡng
7. Hoạt động cạnh tranh chất sắt:
Sắt là chất cần thiết cho sự sinh trưởng của tất cả các vi sinh vật. Vào năm 1993 Reid et al đã phát hiện ra hiện tượng kết tủa ion sắt có trọng lượng phân tử thấp chứa trong môi trường. Tức là các vi sinh vật hấp thụ phân tử sắt kết tủa và làm mất sắt trong môi trường. Đặc biệt các vi sinh vật gây bệnh muốn tăng trưởng nhanh thì càng cần nhiều sắt. Vì lẽ đó mà dẫn đến hiện tượng cạnh tranh sắt trong vi sinh vật. Quá trình này mang đến kết quả hạn chế mầm bệnh trong môi trường